Những vết thương lòng của những người ở lại Chiến tranh biên giới phía Bắc Gần 4 thập kỷ đã trôi qua,. Bộ phim tài liệu này là lời nhắn gửi tâm tình cùng ký ức không thể nào phai.
Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc 1979: Cuộc chuyển quân thần tốc
- Cập nhật : 16/02/2017
Tháng 2/1979, Trung Quốc đưa quân tấn công các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, chiến dịch chuyển quân thần tốc chưa từng có từ Nam ra Bắc được thực hiện.
Những chuyến không vận từ Nam ra Bắc
Các máy bay vận tải của trung đoàn 918 và máy bay chở khách của trung đoàn 919 đã thực hiện hàng trăm chuyến bay vận chuyển bộ đội chủ lực và vũ khí trang bị kỹ thuật của các quân đoàn chủ lực từ Nam ra Bắc. Một chiến dịch chuyển quân thần tốc với quy mô lớn chưa từng có từ Nam ra Bắc đã được triển khai.
Đã có 805 chuyến bay vận chuyển quân sự chở 8.900 lượt quân (cùng 1.000 tấn hàng) để điều chỉnh bố trí lại thế trận của Bộ Quốc phòng.
Tận dụng tối đa máy bay
“Sáng, phi công chúng tôi dậy tập thể dục thấy bộ đội nằm la liệt ngoài sân, ngoài hiên, ngoài vỉa hè... đông đặc khắp sân bay. Đêm họ về lúc nào mình không biết. Đi đông thế mà giữ trật tự, kín như bưng” - đại tá Trần Văn Tuyên, 70 tuổi, cựu giảng viên Học viện Phòng không không quân, nguyên chủ nhiệm bay trung đoàn 918, nhớ lại.
Đó là quân chủ lực của ta được điều về từ mặt trận Campuchia để chi viện cho biên giới phía Bắc. Trong đợt không vận lớn nhất lịch sử không quân Việt Nam này, phi công Trần Văn Tuyên mới hàm trung úy, là một trong hai lái chính tổ bay C-119 chở Quân đoàn 2 từ Tân Sơn Nhất ra Bắc.
Thượng tá Trần Xuân Đô, 60 tuổi, hiện ở TP.HCM, cho biết: “Quân đoàn 2 hành quân bằng ôtô từ Campuchia về đến Sài Gòn. Một số đặc công - lực lượng tinh nhuệ - đi trực thăng UH-1, CH-47, Mi-8, Mi-6 của trung đoàn 917. Trung đoàn 916 chở quân từ các nơi về sân bay Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, Đà Nẵng. Sau đó, bộ đội hành quân ra Bắc bằng máy bay của trung đoàn không quân 918 và phi đội máy bay An-12 do các phi công Liên Xô lái”.
Lúc đó toàn bộ phi đội máy bay AN-12 khoảng 12 chiếc do Liên Xô khẩn cấp đưa sang đã tập trung về sân bay Tân Sơn Nhất. Riêng trung đoàn 918 có gần 40 máy bay thu được sau giải phóng nhưng chỉ hơn 10 chiếc còn dùng được.
“Lực lượng máy bay chủ lực chở Quân đoàn 2 ra Bắc là AN-12 do các phi công Liên Xô lái. Một ngày AN-12 bay hàng chục chuyến. Máy bay của họ tốt, tốc độ cao, chỉ khoảng hai tiếng là đã ra đến Hà Nội nên gần như sử dụng tối đa” - thượng tá Trần Xuân Đô nhớ lại.
Ở trung đoàn 918, loại máy bay chủ lực để vận chuyển là C-130 (bốn tổ bay, chở tối đa gần 100 quân, tốc độ nhanh nhất của trung đoàn 918) và C-119 (hai tổ bay, chở được 50 quân). Còn trực thăng vận tải hạng nặng C-47 chỉ chở được 30 người lại bay chậm (năm tiếng) nên ít được huy động, chỉ tham gia vài chuyến. Lúc đó trung đoàn 918 có khoảng sáu chiếc C-130 nhưng chỉ dùng được bốn. C-119 có bốn máy bay nhưng chỉ sử dụng được hai.
“Ngày đó máy bay ít. Máy bay và tổ bay được tận dụng tối đa. Mỗi chiếc C-130 một ngày bay 2-3 chuyến từ Tân Sơn Nhất ra Nội Bài. C-119 bay hơi chậm, hơn bốn tiếng mới ra đến nơi, có khi hơn nên mỗi ngày chỉ bay ra được một chuyến rồi vào, sáng sau bay tiếp” - thượng tá Trần Xuân Đô nói.
Đại tá Trần Văn Tuyên - phi công lái chính tổ bay C-119 tham gia đợt không vận năm 1979 chở Quân đoàn 2 từ Nam ra Bắc. Ảnh Tuổi trẻ.
Vượt qua khó khăn
Một số phi công tham gia đợt không vận ngày ấy chân thật kể rằng họ chỉ mới tiếp thu máy bay sau khóa học chớp nhoáng, kiến thức để sử dụng còn hạn chế. Ngày đó máy móc trợ giúp rất ít, không hiện đại như bây giờ. Rađa của máy bay C-119, C-47 rất kém. C-130 thì khá hơn.
“Sân bay Tân Sơn Nhất có hai đường băng song song rộng. Còn đường băng ở Nội Bài hố bom sứt sẹo. Mà thời tiết miền Bắc mùa đó phức tạp lắm, anh em bay rất vất vả. Mây dày và thấp, mưa phùn. Có cả dông. Tầm nhìn hạn chế. Toàn bay vào mây. Vừa bay vừa dự toán, bay theo cảm giác, kinh nghiệm” - đại tá Trần Văn Tuyên kể.
Từ Tân Sơn Nhất ra Nội Bài, mỗi chuyến bay của C-119 mất bốn tiếng vì phải tránh mây mù, dông, mưa. Đại tá Tuyên khẳng định: “Máy bay rung xóc như ngồi xe tải chạy trên ổ gà. Lên trời là tổ bay hoàn toàn độc lập “tác chiến”. Lực lượng dưới mặt đất không trợ giúp được gì. Tôi chở quân gần 10 chuyến. Có những chuyến bay trước mặt đen kịt không nhìn thấy gì. Cứ liều bay xuyên mây, vào mưa. Có chuyến mưa như người ta cầm xô nước đổ xuống đầu".
"Nói không ai tin chứ máy bay C-119 tôi lái lúc đó bị dột. Anh Bích là nhân viên thông tin kiêm cơ giới phụ phải cầm tấm gỗ che mưa cho tôi bay. C-130 còn có buồng kín chứ C-119 thì không. Mưa, lạnh khủng khiếp. Đã thế lại phải bay vòng vo tránh mây tránh mưa. Sau gần năm tiếng mới đến nơi”.
Đại tá Tuyên cho biết ông bay liên tục hơn một tuần. Toàn bộ các tổ bay hoạt động với cường độ cao, cất cánh liên tục từ sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Cần Thơ bay thẳng ra Nội Bài. Nhiều tổ bay chỉ mới được phê chuẩn đã được giao nhiệm vụ bay vận chuyển đường dài.
Thượng tá Trần Xuân Đô kể: “Cả căn cứ không quân những ngày đó vô cùng khẩn trương, nhộn nhịp. Lúc nào ở cửa ga cũng có hàng chục máy bay đậu xếp hàng chờ đến lượt cất cánh. Tiếng động cơ máy bay cứ ầm ầm từ sáng sớm đến chiều tối. Một ngày có hàng chục máy bay cất cánh từ Tân Sơn Nhất. Cứ xếp quân lên là cất cánh. Máy bay dân dụng lúc đó rất ít, chủ yếu là máy bay quân sự mà bay nhiều nhất, chở được nhiều quân nhất là AN-12. Cường độ bay rất lớn”.
Các chuyến bay còn làm cả nhiệm vụ vận chuyển khí tài và trang bị kỹ thuật cho các trung đoàn không quân. “Tôi tham gia được mấy chuyến. Có chuyến chở khí tài máy bay tiêm kích F-5 của trung đoàn 935 và máy bay ném bom A-37 của trung đoàn 937 ra Nội Bài. Có chuyến chở cả thùng rocket, máy thông tin và thợ máy ra cho trung đoàn bạn lắp ráp vũ khí".
"Tôi tham gia được 2-3 chuyến đi C-130 xuống Biên Hòa chở rocket ra Nội Bài để lắp ráp lên máy bay F-5. Lúc đó Nội Bài là sân bay quân sự. Bộ đội Quân đoàn 2 chở ra đó tập trung lực lượng đi ôtô ngay lên biên giới. Các loại vũ khí bom, đạn, tên lửa... đầy ở sân bay Nội Bài” - thượng tá Trần Xuân Đô cho biết.
Chỉ trong một thời gian ngắn kỷ lục, từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 3-1979, tổ bay C-119 đã chở gần một trung đoàn bộ binh ra Bắc! Sách lịch sử của trung đoàn không quân 918 viết: Chỉ trong vòng một tháng, trung đoàn không quân 918 đã vận chuyển số lượng bộ đội và hàng quân sự xấp xỉ bằng cả năm 1978!
Ngày 18/2/1979, chỉ một ngày sau khi Trung Quốc vượt qua biên giới Việt Nam, trung đoàn không quân 917 đã cơ động ba trực thăng UH-1 từ miền Nam ra sân bay Hòa Lạc làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Đến ngày 3/3/1979, trung đoàn 917 đưa thêm bảy trực thăng UH-1, ba máy bay trinh sát U-17 và một bộ phận cán bộ chiến sĩ ra Bắc sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Từ ngày 22/2 đến ngày 3/3/1979, toàn bộ phi đội 10 máy bay tiêm kích F-5 của trung đoàn không quân 935, 10 máy bay ném bom A-37 của trung đoàn không quân 937 từ miền Nam đã tập kết ở sân bay Nội Bài.
Theo Báo Đất Việt/Tuổi Trẻ