Để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược tháng 2-1979, quân đội Trung Quốc đã huy động 620.000 quân, tấn công 6 tỉnh khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam.
Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979: Bản lĩnh kiên cường, dũng mãnh của Việt Nam
- Cập nhật : 18/02/2017
Việt Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc năm 1979 bằng sự lãnh đạo tài tình, ý chí kiên cường và chiến thuật hợp lý.
Sau 3 tuần chiến đấu, quân dân Việt Nam đã anh dũng đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc, buộc nhà cầm quyền Bắc Kinh phải rút quân vào ngày 5-3-1979, với thiệt hại tới 62.000 quân và hàng trăm xe tăng, xe cơ giới.
Chúng ta cùng tìm hiểu và đưa ra những đánh giá về nguyên nhân quân và dân Việt Nam có được chiến thắng trước đạo quân xâm lược “biển người” của Trung Quốc.
Những nguyên nhân khách quan:
Được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
Sau khi Trung Quốc nổ súng tấn công Việt Nam, cộng đồng quốc tế - đặc biệt là các nước thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa đã đồng loạt lên tiếng ủng hộ chúng ta, phản đối hành động xâm lược trắng trợn của Trung Quốc.
Ngày 19-2, Liên Xô đã ra Bản tuyên bố thứ nhất lên án hành động xâm lược của Trung Quốc, khẳng định sự ủng hộ và thực thi những cam kết của mình đối với Việt Nam, thông qua những điều khoản trong Hiệp ước hợp tác hữu nghị toàn diện và giúp đỡ lẫn nhau giữa Liên Xô và Việt Nam.
Đồng thời, Liên Xô cũng tiến hành những hoạt động tích cực tại Liên Hiệp Quốc nhằm đòi Trung Quốc chấm dứt chiến tranh và yêu cầu đưa “kẻ xâm lược” ra xét xử. Ngoài ra, nước bạn còn cử cố vấn sang giúp đỡ, tăng cường viện trợ hàng hóa và vũ khí cho Việt Nam.
Các nước Cuba, Ba Lan, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Hungary, Bulgaria, Albania, Mông Cổ…, cùng với nhiều quốc gia châu Á, châu Phi khác như Lào, Ấn Độ, Afghanistan, Ethiopia, Angola, Mozambique… đã đồng loạt lên án nhà cầm quyền Bắc Kinh và bày tỏ sự ủng hộ Việt Nam.
Ngày 23 tháng 2, Liên Xô cùng Tiệp Khắc đưa dự thảo nghị quyết trong đó lên án hành động xâm lược và đòi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải rút quân, đồng thời phải bồi thường chiến tranh cho Việt Nam và kêu gọi quốc tế cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc.
Thậm chí, trước ngày Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cuba đã cảnh báo rằng, nếu Bắc Kinh không chấm dứt hành động xâm lược, nước này có thể sẽ đưa quân đến giúp đỡ Việt Nam.
Ngoài Hoa Kỳ trước đó đã ngấm ngầm ủng hộ và bật đèn xanh cho Trung Quốc xâm lược Việt Nam thì đa số các quốc gia phương Tây phản đối mạnh mẽ hành động quân sự của phía Trung Quốc, sự cô lập này đã ảnh hưởng khá lớn tới chính sách ngoại giao thời kỳ đầu mở cửa của Bắc Kinh.Nhân dân yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới cũng đã đứng về phía nhân dân ta, tổ chức nhiều phong trào đấu tranh đòi Trung Quốc rút quân. Nhiều cuộc vận động ủng hộ Việt Nam về tinh thần và vật chất đã được phát động ở khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông thế giới cũng đồng loạt lên án những hành động xâm lược trắng trợn của Trung Quốc và coi cuộc xâm lược này là sự thể hiện bản chất của một “siêu cường quân phiệt và bá quyền, có dã tâm dúng sức mạnh áp bức các nước láng giềng yếu hơn".
Sự phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa trong chính nội bộ Trung Quốc
Sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều tài liệu cho thấy, việc mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam không chỉ bị binh lính nước này nghi ngờ về tính chất phi nghĩa của nó, mà còn có nhiều nhân vật thuộc tầng lớp cấp cao trong quân đội Trung Quốc phản đối gay gắt.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh (lúc đó là Chủ tịch nước-Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, tức nhân vật số 2 của Trung Quốc) đã bất bình nói rằng: “Diễu võ dương oai đánh Việt Nam thì được gì? Không khác gì Gia Cát Lượng Bắc phạt Tư Mã Ý, đánh vào nơi nào và làm sao đánh thắng được?”.
Trong binh lính Trung Quốc thời đó đa phần không hiểu tại sao lại phải đánh Việt Nam, tâm lý đó đã dẫn đến tình trạng tự thương để trốn về tuyến sau, những người ở lại thì tinh thần chiến đấu sa sút, chỉ dựa vào số đông để ào ào tiến, lúc thua thì nhụt chí, bỏ chạy.
Đây là một trong những nguyên nhân khiến quân ta mặc dù quân số ít hơn nhưng nhiều lần bẻ gẫy những đợt tấn công ồ ạt của quân địch. Yếu tố tâm lý tác động đến cuộc chiến tranh phi nghĩa của nhà cầm quyền Bắc Kinh như thế nào chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ trong phần nguyên nhân thất bại của Trung Quốc.
Sự giúp đỡ quý báu của Liên Xô
Về bản chất, phần này có thể đưa vào mục “sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế” nhưng sự ủng hộ về tinh thần và vật chất, cùng với những động thái quân sự của Liên Xô giúp đỡ Việt Nam là vô cùng to lớn, có tác động mang tính quyết định đến cuộc chiến năm 1979. Do đó, phẩn này sẽ được trình bày thành một bài riêng, trong kỳ tiếp theo.
Nguyên nhân chủ quan
Chỉ đạo đúng đắn,quyết đoán của Đảng, Nhà nước và Quân đội
Cuộc tấn công xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 là nấc thang cao nhất, thể hiện thái độ thù địch của Trung Quốc đối với Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước ta đã nhanh chóng đưa ra những lởi kêu gọi động viên tinh thần toàn dân tộc chống quân xâm lược.
Ngay trong ngày 17-2-1979, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố thể hiện sự tin tưởng sắt đá rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ cùng với sự ủng hộ của bạn bè khắp năm châu, quân và dân Việt Nam nhất định sẽ đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của dân tộc.
Ngày 18-2-1979, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra Lời kêu gọi toàn dân đoàn kết “kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, chặn đứng và đập tan cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác của bọn phản động Trung Quốc”.
Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Lời kêu gọi toàn Dân tộc Việt Nam nỗ lực thực hiện nghĩa vụ dân tộc vẻ vang là tiến hành cuộc kháng chiến, đánh thắng quân xâm lược Trung Quốc, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Ngày 5-3, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã công bố Lệnh Tổng động viên trong cả nước để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc.
Về mặt chỉ đạo tư tưởng quân sự, ngày 1-3-1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 67, Về việc phát động và tổ chức toàn dân chuẩn bị chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc, nêu bật nhiệm vụ “xây dựng thế phòng thủ vững chắc của đất nước, tăng cường sức mạnh chiến đấu, đánh bại quân xâm lược Trung Quốc”.
Tiếp đó, ngày 3-3-1979, Bộ Chính trị ra Nghị quyết chuyên đề số 16 về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Trung Quốc.
Nghị quyết dự đoán chiến tranh có thể diễn biến theo hai tình huống: Một là, địch bị chặn lại ở biên giới, bị tiêu diệt lớn, buộc phải rút quân về nước. Hai là, địch chiếm được một số thị xã và huyện biên giới, mở rộng chiến tranh.
Trong bất kỳ tình huống nào, cũng phải giữ vững tư tưởng chủ đạo: Vừa dốc sức giành thắng lợi trong thời gian ngắn, đồng thời phải chuẩn bị mọi điều kiện để đánh lâu dài, quyết đánh tan quân định, với phương châm: “Làm chủ đất nước, làm chủ chiến trường để tiêu diệt địch; tiêu diệt địch để làm chủ đất nước, làm chủ chiến trường”.
Về quân sự, Nghị quyết xác định: Một là: Quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược ở biên giới; Hai là: Cả nước ráo riết chống chiến tranh xâm lược, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu ở các tuyến trung du và đồng bằng; Ba là: Triển khai kế hoạch bảo vệ Thủ đô Hà Nội và thành phố Cảng Hải Phòng; Bốn là: Tiến hành bố phòng, chuẩn bị chiến đấu ở khu vực hậu phương trực tiếp (từ Hà Nội đến Thanh Hoá-Nghệ Tĩnh, sau này tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh) và trong cả nước.
Song song với những chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, quân đội ta cũng bám sát thực tế chiến trường, định quyết sách đúng, giúp quân và dân ta cầm chân quân địch trên biên giới hơn 3 tuần, giúp chúng ta có thời gian và điều kiện chuyển chủ lực từ Campuchia về chuẩn bị tổng phản công tiêu diệt lớn quân địch, buộc địch phải tuyên bố rút quân ngày 5-3.
Ngày 6-3-1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 69, nhận định về tình hình và đưa ra chủ trương mới, trong điều kiện Việt Nam thể hiện tinh thần đại nhân-đại nghĩa của cha ông hàng ngàn năm qua, cho phép quân xâm lược được rút quân về nước.
Chỉ thị của Ban Bí thư nhắc nhở quân và dân ta : “…trong khi chấp nhận cho địch rút quân, chúng ta luôn luôn phải nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng, sẵn sàng giáng trả địch đích đáng, nếu chúng lật lọng, trở lại xâm lược nước ta lần nữa”.
Chỉ thị nhấn mạnh thêm rằng, chúng ta không được một chút mơ hồ trước âm mưu lâu dài của Trung Quốc là thôn tính nước ta, khuất phục nhân dân ta. Quân dân Việt Nam phải “luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm lược”.
Về mặt quốc tế, “cần giương cao chính nghĩa của ta, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ hòa bình, xúc tiến việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ, bảo vệ Việt Nam".
Tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường của quân dân các tỉnh biên giới
Hầu hết các nhà nghiên cứu quốc tế đều thừa nhận rằng, chỉ có dân quân và các lực lượng địa phương Việt Nam đã tham gia phòng thủ nhưng họ đã tấn công liên tục chống quân xâm lược và chỉ chịu mất Lạng Sơn và một số thị xã khác, sau khi đã gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc.
Trên tinh thần “tất cả cho Tổ quốc quyết sinh”, mặc dù lực lượng chênh lệch rất lớn nhưng quân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu bảo vệ từng mảnh đất biên cương của Tổ quốc.
Trên các mặt trận dọc tuyến biên giới phía Bắc, chiến thuật “biển người” của Trung Quốc đã không thể phát huy tác dụng trước ý chí bảo vệ non sông, đất nước và lòng quả cảm của những người con đất Việt. Máu của quân dân ta đã đổ trên dải đất biên cương nhưng quân xâm lược đã bị giáng trả thích đáng.
Tiến nhanh lúc đầu do yếu tố bất ngờ, nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ do do vấp phải tinh thần chiến đấu kiên cường và chiến thuật phòng ngự hiệu quả của bộ đội địa phương và dân quân du kích Việt Nam, khiến chúng tiến rất chậm và bị thương vong rất nặng nề.
Ở nhiều nơi, bộ đội phục viên đã tự động tụ họp lại tổ chức các nhóm vũ trang chống quân địch, nhiều nhóm lão dân quân, nữ dân quân cũng tổ chức đánh vào sau lưng địch, khiến quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải xé lẻ đội hình và thay đổi chiến thuật.
Ở hướng Cao Bằng, các cánh quân Trung Quốc đều bị bộ đội địa phương, dân quân tỉnh này cương quyết đánh chặn. Giặc xâm lược đi đến đâu cũng gặp phải “hỏa ngục”, bị phản kích xé tan đội hình, phải bỏ chạy về bên kia biên giới, chờ tăng viện mới tiếp tục tấn công.
Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, dân quân, tự vệ cùng các lực lượng vũ trang địa phương ta đã đánh trả quyết liệt, khiến suốt 7 ngày, hai Tập đoàn quân Trung Quốc vẫn không qua nổi trận địa đánh chặn, phục kích.Trên các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ, hơn 1.000 tên xâm lược đã thiệt mạng ở Hà Tuyên, hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui tại Quảng Ninh, tháo chạy sát về biên giới.
Những chàng trai tuổi đời đôi mươi lên đường bảo vệ biên cương đất nước, chống bọn bành trướng bá quyền Trung Quốc năm 1979
Những trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao giữa số ít bộ đội dân quân Việt Nam với biển người Trung Quốc, có những trận lực lượng phòng thủ của ta đánh đến người lính cuối cùng, bắn tới viên đạn cuối cùng mà quân của chúng vẫn ồ ạt kéo tới.
Có những lần giặc ném lựu đạn vào, chưa kịp nổ thì quân ta đã nhanh tay cầm lựu đạn ném trả lại, có những lúc những chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng đã rút chốt lựu đạn lao vào cùng chết với giặc khi hết đạn, mà quân địch vẫn ùn ùn xông tới.
6 sư đoàn địch đánh vào Lạng Sơn, Pháo đài Đồng Đăng - nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất đã phòng thủ kiên cường cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại Pháo đài, địch liên tục bắc loa hù dọa, dụ dỗ, kêu gọi đầu hàng nhưng quân ta kiên quyết chống trả tới hơi thở cuối cùng.
Quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, dùng vũ khí hóa học bắn vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả những thương bệnh binh và nhân dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
Những giọt máu của quân dân tuyến đầu biên giới đã nhỏ xuống tạo thành vành đai đỏ ngăn bước quân thù, khiến cho lực lượng tuyến sau có thời gian tổ chức lực lượng, củng cố trận địa công sự cầm chân địch để hậu phương có thời gian điều chuyển binh lực nhằm tiêu diệt sạch quân thù.
Chiến thuật tác chiến linh hoạt, sáng tạo
Với lợi thế bất ngờ, quân Trung Quốc ồ ạt tràn sang biên giới, hung hãn xua quân tấn công khắp nơi, kéo quân đánh mạnh vào những trọng điểm phòng ngự, thế tiến quân như chẻ tre trong thời gian đầu.
Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa, biển người và hỏa lực mạnh (tiền pháo hậu xung) của giặc đã gây không ít khó khăn cho ta, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và cướp phá một số thị trấn.
Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở Tây Bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị, Thông Nông ở Đông Bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông Hồng và đánh mạnh về phía Lào Cai.
Nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng bị hụt hẫng và phải chững lại, phải giảm tốc độ bởi hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới rất mạnh, với các hầm hào, hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ,
Cùng với những trở ngại về địa hình rừng núi hiểm trở và khí hậu Việt Nam, sức kháng cự mãnh liệt của ta khiến quân bành trướng Bắc Kinh phải chịu những tổn thất ban đầu rất lớn. Ít nhất 4.000 lính Trung Quốc đã thiệt mạng chỉ trong hai ngày đầu tiến công vào Việt Nam.
Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã vào được 11 làng mạc và thị trấn, nhưng chúng cũng không thể sử dụng được tài nguyên trong những vùng tạm chiếm, để bù đắp cho lực lượng hậu cần yếu kém, do chúng ta thực hiện chiến lược "vườn không nhà trống" hiệu quả.
Giai đoạn tiếp theo, để đối phó với sự vượt trội về quân số và hỏa lực của địch, quân dân Việt Nam áp dụng chiến thuật phòng ngự mềm dẻo, đánh tiêu hao, từng bước làm hao mòn sinh lực giặc, phát huy cao độ nghệ thuật chiến tranh du kích và hiệu quả chiến tranh nhân dân.Quân đội Việt Nam phân tán thành những toán nhỏ và các đơn vị cỡ trung đội, ẩn trên núi non, rừng rậm và hang động, tận dụng địa thế hiểm trở, ưu thế về địa lợi, nhân hòa, phong thổ khắc nghiệt với quân thù, và tiếp tục phát động các cuộc phản công.
Với chiến thuật hợp lý, quân dân ta đã chặn đứng bước tiến của quân địch sau ngày đầu (Ảnh: Quân ta trao trả tù binh cho Trung Quốc)
Sự kháng cự không hề nao núng của quân dân Việt Nam buộc Trung Quốc phải thay đổi chiến thuật hoạt động bằng cách chia quân thành những đơn vị cỡ tiểu đoàn để đối phó. Có nơi quân địch đã đi qua nhưng buộc phải quay trở lại chiến đấu vì bị đánh sau lưng quá mạnh.
Quân ta tận dụng yếu tố bất ngờ, thường xuyên tổ chức phục kích, tập kích, đánh úp, đánh tập hậu. Có khu vực vừa đánh vừa lui chiến thuật, nhử địch vào sâu để tiêu diệt. Những khu vực lực lượng ít thì quân ta cố gắng cầm cự, giúp phía sau có thời gian củng cố lực lượng.
Tất cả những hoạt động này đã khiến sau 3 tuần phát động cuộc chiến tranh xâm lược với lực lượng và vũ khí áp đảo mà quân xâm lược mới tiến được vào sâu trong đất ta vài chục km, trái ngược với tuyên bố huênh hoang của một số tướng lĩnh Trung Quốc là chỉ 1 tuần có thể chiếm 5 tỉnh thành của Việt Nam và đánh xuống đến Hà Nội.
Tinh thần chiến đấu không sợ hy sinh và chiến thuật hợp lý đã giúp chúng ta có thời gian xây dựng lực lượng, cơ động chủ lực từ Campuchia về và từ miền Nam ra, chuẩn bị hợp công quét sạch quân xâm lược, buộc Trung Quốc phải tuyên bố rút quân vào ngày 5-3-1979, sau khi thiệt hại tới 62.000 quân.
THiên Nam
Theo Báo Đất Việt