Đúng 4 giờ sáng ngày 12.7.1984, núi đồi rung chuyển, chớp lửa chói lòa, cỏ cây đất đá bay ầm ầm. Trận đánh kinh hoàng đã bắt đầu.
Vị Xuyên những ngày lửa rát: Nóng bỏng trên chốt
- Cập nhật : 26/07/2017
Cuộc chiến Vị Xuyên (Hà Giang) kéo dài nhiều năm, với những tháng ngày chiến đấu giằng co, vô cùng gian khổ, thiếu thốn. Những người lính kể lại, có khi chỉ vì đi lấy can nước mà phải đổi cả tính mạng.
Thiếu thốn trăm bề
Sau những giây phút hồi tưởng về trận đánh ngày 12.7.1984, cựu chiến binh Lương Tú Liêu - người gần như gắn mình với cuộc chiến đấu ở mặt trận Vị Xuyên cho biết: “Ở Vị Xuyên, khi nằm trên chốt chúng tôi thiếu thốn đủ bề. 100% cán bộ, chiến sĩ chỉ có một chiếc quần đùi để mặc, mà quân đùi cũng cứng như đá vì nhiều ngày không giặt. Tóc thì ai nấy đều dài tới ngang vai, người thì ghẻ lở... Cái gì cũng thiếu nhưng khốn khổ nhất vẫn là thiếu nước”.
Tất cả các điểm cao từ 1509, 772, 683, địch đều chiếm trên đỉnh, còn ta phòng ngự phía dưới. Hai bên cứ đánh giằng co, lúc thì vu hồi, lúc tấn công. Quân Trung Quốc ở trên cao lại được trang bị tốt, nhiều đạn nên bắn vô tội vạ, bất kể giờ giấc nào. Đặc biệt, khi chúng dùng H12 (một loại hỏa tiễn 12 nòng), cứ thấy bóng bộ đội mình ở đâu là chúng dập nguyên cả 12 quả đạn vào đó. Nhiều chiến sĩ của ta hy sinh vì trò tấn công này.
Ông Liêu chia sẻ thêm: “Trên chốt cái gì cũng hiếm, nhưng nước là thứ hiếm nhất. Khi đi lấy nước, bộ đội ta phải canh từ 2 giờ 30 đến 4 giờ sáng mới bò từ các điểm chốt xuống suối hứng nước. Có khi chỉ vì đi lấy can nước mà phải đổi cả tính mạng”.
Trong 5 năm 1984-1989, hơn 4.000 chiến sĩ đã hy sinh trên mặt trận Vị Xuyên - Thanh Thủy. Chỉ riêng ngày 12.7.1984, ngày khốc liệt nhất của cuộc chiến, hơn 1.000 người lính đã ngã xuống. Họ đa phần mới 18-20, đầy nhiệt huyết và quyết tâm bảo vệ Tổ quốc.
Không chỉ thiếu nước mà cả cái ăn cũng thiếu, những người lính trên chốt nhận khẩu phần chỉ có mắm kem, tương cục và cá chuồn khô. Gạo thiếu, rau chỉ kiếm được các loại rau rừng, mà chủ yếu là rau dương xỉ mọc xen trong những gờ đá. Tới đêm bộ đội ta mới bò ra nhổ về, sau đó đốt than hong cho héo, rồi đưa vào xào để ăn cho khỏi ngái. Mà rau loại này cũng phải ăn tiết kiệm, mỗi người cũng chỉ được vài miếng một bữa.
Nói về sự thiếu thốn ở trên chốt, ông Liêu kể: “Có một lần chúng tôi nghe tiếng lợn kêu, đoán rằng anh em hậu cần sẽ làm thịt, ở những hầm cóc trong vách núi, mỗi người đều lấy một cái ca, bỏ tí muối vào và thò ra xin một ít tiết lợn để uống sống, thỏa mãn cơn “thèm thịt” sau bao ngày thiếu thốn”.
Không chỉ khát nước, đói ăn, mà đời sống văn hóa tinh thần của người lính cũng thiếu đến mức đáng sợ. Họ không bao giờ quên những lần được “dự tiệc” văn nghệ. Hơn 30 năm trôi qua, ông Liêu vẫn nhớ lần được về sư đoàn xem văn nghệ. Ông nhớ lại: “Hôm đó có ca sĩ Bảo Yến hát bài “Màu hoa đỏ”, ca sĩ Lê Dung hát bài “Vết chân tròn trên cát”. Tôi bẻ cành hoa dại tặng Bảo Yến, được ca sĩ ôm hôn ngay trên sân khấu. Cái ôm đó làm cho những người lính chúng tôi vững tin ra trận, không sợ hy sinh, không sợ khó khăn. Cái ôm đó còn ấm đến tận hôm nay”.
Ám ảnh tải thương
Là một sĩ quan của Trung đoàn vận tải thuộc Sư đoàn 356, ông Hoàng Thế Cương vẫn còn ám ảnh những ngày khốc liệt ở Vị Xuyên. “Đến tận bây giờ, mỗi khi đang ngủ mà nghe tiếng sấm, tôi vẫn bật dậy tìm nơi trú ẩn, bởi ngày xưa, chúng tôi chịu quá nhiều trận pháo nã lên đầu. Tôi tận mắt chứng kiến một lúc 6 chiến sĩ của tôi hy sinh, không tìm được thân thể vì bị pháo tập kích trúng chỗ họ đang nấu cơm”.
"Có những hôm đưa anh em về thác Thanh Hương để tắm rửa, mà xe ôtô chưa lên kịp chở đi, phải xếp dọc suối. Nhìn xác anh em không còn nguyên vẹn, đau xót lắm”.
Ông Hoàng Thế Cương
Nhưng ám ảnh nhất đối với ông là mỗi khi đi thu dọn chiến trường, lấy xác tử sĩ. Ông Cương kể: “Do trận địa ở trên núi đá, bộ đội ta chiến đấu xong là rút đi, nhiệm vụ của chúng tôi là phải tìm xác đồng đội. Nhưng công việc lấy xác và tìm kiếm thương binh thường phải tiến hành vào ban đêm vì ban ngày nếu quân Trung Quốc phát hiện, chúng sẽ bắn như vãi đạn vào bộ đội ta. Quân Trung Quốc vô cùng thâm hiểm, chúng thường đặt bẫy, gài lựu đạn hay đặt mìn dưới xác bộ đội ta. Nếu chiến sĩ tải thương không có kinh nghiệm, khi nhìn thấy đồng đội nằm ở đó mà lao tới chuyển đi ngay rất dễ bị dính bẫy của chúng, nhẹ thì cụt chân tay, nặng phải “đi theo” các đồng đội”.
Nhiệm vụ tìm kiếm đồng đội hy sinh đã vất vả, nhưng công việc tắm rửa cho anh em hy sinh thì không phải ai cũng làm được. Những người lính ở Vị Xuyên, đặc biệt làm công tác vận tải như ông Cương, việc đó như một thử thách.
Ông Cương nhớ lại: “Có những hôm đưa anh em về thác Thanh Hương để tắm rửa, mà xe ôtô chưa lên kịp chở đi, phải xếp dọc suối. Nhìn xác anh em không còn nguyên vẹn, đau xót lắm. Chúng tôi phải dùng những viên đá đậy lên mắt, lên tai của anh em để tránh chuột và các loại côn trùng khác tấn công. Mọi người cũng tỉ mỉ tìm những tờ giấy trong túi anh em hy sinh để ghi tên lại, đưa cho bộ phận chính sách vào sổ. Có những ngày bộ đội vận tải thu dọn, lau rửa xác anh em không xuể, phải huy động cả hội phụ nữ tỉnh Hà Giang. Chính vì thế thác Thanh Hương mới được lính Vị Xuyên gọi là thác Gọi hồn, đây cũng là nơi bộ đội “ngại” đến nhất”.
Cho tới giờ, sau hơn 30 năm kể từ những ngày kinh hoàng đó, khi ngồi nhớ về cuộc chiến, ông Cương vẫn ám ảnh bởi những tiếng gọi thảm thiết của các thương binh: “Mẹ ơi, mẹ ơi, con chết mất”. Lúc đó, phần lớn các chiến sĩ chỉ ở độ tuổi mười chín đôi mươi. Họ chưa có người yêu, hay người phụ nữ khác ngoài mẹ mình. Những tiếng gọi trong đau thương làm cho ai nghe cũng cảm thấy day dứt và muốn chiến đấu trả thù cho đồng đội, bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
Gia Tưởng
Theo Danviet.vn
Sự kiện: Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27.7)