Doãn Trác hậm hực về việc quân đội Trung Quốc không tiêu diệt được tàu chỉ huy Izumo Nhật trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai; nhưng lại lên gân đòi hỏi tàu sân bay Izumo hiện tại của Nhật tuân thủ "9 không".
Hồ sơ vũ khí sinh hóa của Mỹ
- Cập nhật : 19/03/2017
Trong nhiều thập niên, Mỹ từng theo đuổi những chương trình vũ khí sinh học, hóa học có khả năng khiến hàng triệu người thiệt mạng.
Trước khi có thể tạm kiểm soát ổn định vũ khí hạt nhân như hiện nay, vũ khí sinh hóa là con bài chiến lược hàng đầu của các thế lực lớn trên thế giới.
Theo một phim tài liệu từ năm 1952 vừa được Lầu Năm Góc giải mật thì ngay từ đầu thế kỷ 20, quân đội Mỹ đã giao nhiệm vụ cho lục quân phát triển vũ khí hóa học, còn hải quân nghiên cứu cách phát tán hiệu quả nhất. Kết quả là sự ra đời của Đơn vị chiến tranh hóa học vào năm 1918, thời điểm Thế chiến 1 sắp kết thúc. Sau đó, đơn vị này được nâng cấp thành Quân đoàn hóa học, có khả năng bào chế những loại khí độc như khí mù tạt và phosgene làm cháy da, tổn hại phổi.
Ngay sau Thế chiến 2, Mỹ, Liên Xô và các đồng minh của cả hai tiếp tục cuộc chạy đua vũ khí sinh hóa. Bên nào cũng tìm cách chiếm giữ các tài liệu của Đức Quốc xã nghiên cứu về chất organophosphate, có khả năng tấn công trực tiếp vào hệ thần kinh trung ương, chặn đường liên lạc thông tin giữa não bộ với các cơ quan nội tạng thiết yếu.
Đến thời Chiến tranh lạnh, Mỹ tiếp tục nhiều cuộc thử nghiệm quy mô cực lớn để có thể sẵn sàng sử dụng loại vũ khí có sức hủy diệt kinh khủng nhưng cực rẻ này.
Thí nghiệm trên 800.000 người
Ngày 20.9.1950, một tàu quét thủy lôi của hải quân Mỹ neo ngoài vịnh San Francisco (bang California) bắt đầu phun đám khói khổng lồ vào không khí. Ở thành phố luôn dày đặc sương mù này, chẳng mấy ai bận tâm đến việc không khí có vẻ đậm đặc hơn bình thường. Cư dân địa phương không hay biết rằng có vô vàn vi khuẩn lẫn giữa đám khói mù.
Thực chất, hải quân Mỹ lúc đó đang tiến hành “giả định một vụ tấn công bằng vũ khí vi trùng” nhằm xác định hậu quả nếu lãnh thổ Mỹ hứng chịu đòn tấn công sinh hóa của đối phương. Hành động phát tán vi khuẩn kéo dài suốt 1 tuần lễ, ảnh hưởng 800.000 người ở San Francisco và chuyên san Discover gọi đây là “một trong những cuộc thử nghiệm trên người lớn nhất trong lịch sử”.
Hải quân Mỹ khi đó sử dụng 2 loại vi khuẩn Serratia marcescens và Bacillus globigii trong cuộc thử nghiệm vì tin rằng chúng vô hại đối với sức khỏe, cũng như dễ theo dõi. Làn khói mù chứa vi khuẩn nhanh chóng phát tán trên một khu vực rộng lớn. Bằng cách lần theo dấu vết vi khuẩn, quân đội phát hiện chúng đã vượt khỏi địa phận San Francisco và lan đến các cộng đồng kế cận như Albany, Berkeley, Daly City, Colma, Oakland, San Leandro và Sausalito.
“Từ kết quả này, có thể ghi nhận rằng khu vực San Francisco có thể bị tấn công sinh học từ phía biển. Hậu quả sẽ rất nghiêm trọng trên diện rộng nếu đủ liều lượng với ít nhất 210.000 người chết và bị thương”, Discover trích báo cáo giải mật của Lầu Năm Góc viết.
Mặt khác, dù quân đội Mỹ khẳng định các loại vi khuẩn được sử dụng không có hại cho sức khỏe nhưng các bác sĩ tin rằng có ít nhất 1 trường hợp tử vong và 10 ca nhập viện tại San Francisco thời điểm đó có liên quan đến Serratia marcescens. Đến năm 2005, Cục Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ kết luận vi khuẩn này có thể gây tổn hại đến hệ miễn dịch và nguy hiểm đến tính mạng.
Theo tờ The New York Times, vụ phát tán vi khuẩn ở San Francisco chỉ là một trong số 239 cuộc thử nghiệm chiến tranh vi trùng trong những đô thị lớn của quân đội Mỹ suốt gần 20 năm. Từ năm 1950 - 1966, Lầu Năm Góc liên tục triển khai thêm ít nhất 239 cuộc thí nghiệm tương tự tại 8 thành phố như New York, Key West, Panama City thuộc tiểu bang Florida… cũng như thả vi khuẩn vào xa lộ Pennsylvania Turnpike và sân bay quốc gia ở thủ đô Washington D.C.
Biệt kích vi khuẩn
Cũng theo hồ sơ giải mật, Lầu Năm Góc xác định tàu ngầm sẽ là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh sinh hóa nhờ khả năng âm thầm đến điểm tấn công, phát tán vũ khí hủy diệt rồi lặng lẽ biến mất. Quân đội Mỹ cũng dày công nghiên cứu các loại mìn hóa chất và mìn vi khuẩn định giờ dành riêng cho tàu ngầm mang đến khu vực mục tiêu rồi cài đặt càng sát bờ càng tốt. Đến thời điểm định sẵn, những quả mìn sẽ nổi lên mặt biển và nổ tung để thải vi khuẩn hoặc khí độc chết người vào không khí. Cùng lúc, máy bay sẽ phối hợp thả thêm vũ khí cùng chủng loại vào sâu trong đất liền. Một cuộc tấn công hủy diệt như vậy sẽ tác động lên diện tích cực kỳ rộng lớn, gieo rắc nỗi kinh hoàng hơn hẳn những loại bom đạn truyền thống.
Trong thời điểm thập niên 1950, bình nhiên liệu của mọi loại chiến đấu cơ triển khai từ tàu sân bay như F-4U Corsair, F-7F Tigercat, AD Skyraider tới F-2H Banshee hay F-9F Panther đều được cải biến để phục vụ việc xịt khí độc, vi trùng, hóa chất… Các loại máy bay tuần tra cất cánh từ đất liền như P-2V Neptune thậm chí còn có thể mang được nhiều vũ khí kiểu này hơn.
Chưa hết, vào đầu thập niên 1950, Lầu Năm Góc còn đặt hàng nhà thầu quốc phòng Glenn L.Martin Company nghiên cứu một loại tên lửa không đối đất tầm bắn khoảng 50 km mang tên Gorgon V chuyên để triển khai vũ khí sinh hóa.
Theo thiết kế, Gorgon V với tốc độ xấp xỉ vận tốc âm thanh (khoảng 1.238 km/giờ) mang đầu đạn hóa học hoặc chứa vi khuẩn được phóng từ chiến đấu cơ vào các cứ điểm hoặc thậm chí khu dân cư của đối phương với độ phát tán lan rộng khoảng 180 km2. Tên lửa này được phát triển trong suốt Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) và được kỳ vọng có thể đưa vào thực chiến từ năm 1955. Tuy nhiên, do nhiều trục trặc nảy sinh nên vào cuối năm 1953, quân đội Mỹ quyết định hủy dự án này.
Bên cạnh đó, lực lượng biệt kích cũng không thể đứng ngoài các chương trình vũ khí sinh học - hóa học của nước Mỹ. Hải quân đã thiết kế những thùng khí độc hoặc vi khuẩn kích thước nhỏ chuyên dụng cho Đội phá hủy dưới nước, tiền thân của đơn vị đặc nhiệm hải quân tinh nhuệ SEAL thời nay. Biệt kích sẽ được điều động từ máy bay hoặc tàu ngầm, xâm nhập bằng đường biển đến địa điểm mục tiêu và mở nắp thùng chứa rồi nhanh chóng biến mất.
Bộ phim tư liệu giải mật của hải quân Mỹ khẳng định: “Do hải quân hoạt động trên biển, lực lượng này có thể tấn công bằng vũ khí hóa học và sinh học ở bất kỳ nơi nào từ 3/4 diện tích phủ nước của trái đất. Máy bay trên hàng không mẫu hạm có thể ra đòn nhằm vào mục tiêu sâu trong đất liền cách bờ biển hàng trăm dặm, tấn công trên diện rộng vào dân cư, tàu bè và trung tâm công nghiệp của kẻ thù”.
Tuy nhiên, đến thập niên 1960, vũ khí hạt nhân đã trở thành “xu hướng thời thượng” mới và Mỹ bắt đầu quay sang tập trung chính vào các loại bom nguyên tử trong cuộc chạy đua với Liên Xô.
Hiệp ước vũ khí sinh học 1972 và Công ước vũ khí hóa học năm 1993 lần lượt ra đời cấm hẳn việc sử dụng 2 loại vũ khí kinh khủng này. Dù vậy, chúng vẫn đang tồn tại và trở thành công cụ đắc lực của những tổ chức vũ trang cực đoan như Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS). Vũ khí sinh hóa vẫn đang là nỗi ám ảnh của nhân loại.
Năm 1952, các nhà khoa học Anh bào chế một loại chất độc thần kinh mới được đặt mật mã là Purple Possum. Mỹ lập tức lao vào “gạo bài” của đồng minh để cho ra đời vũ khí hóa học nguy hiểm nhất lịch sử: VX, theo website của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC). Đây chính là hóa chất mà cảnh sát Malaysia kết luận đã được dùng sát hại công dân CHDCND Triều Tiên được cho là ông Kim Jong-nam, anh trai nhà lãnh đạo Kim Jong-un.
Theo các chuyên gia, VX có độc tính cao gấp 10 lần so với chất độc thần kinh khét tiếng sarin. Khi xâm nhập vào cơ thể, phân tử VX can thiệp vào chức năng hoạt động của các tuyến và mô, khiến cơ bắp co thắt một cách không kiểm soát được và dần dần khiến nạn nhân suy kiệt rồi ngừng thở. “Chỉ cần dính phải 5 mg VX trên da cũng đủ hạ gục một người trưởng thành nặng cỡ 70 kg”, AFP dẫn lời ông Yosuke Yamasato, cựu chuyên gia sinh hóa của Lực lượng phòng vệ mặt đất Nhật Bản, cho biết.
Vào thời Chiến tranh lạnh, hàng chục ngàn tấn VX đã xuất xưởng từ Nhà máy hóa chất Newport ở bang Indiana (Mỹ), trước khi bị phá hủy vào cuối những năm 1980. Theo Công ước vũ khí hóa học năm 1993, các bên cam kết không được sản xuất và tàng trữ quá 100 gr VX mỗi năm.
Kiều Oanh
Theo thanhnien.vn